Quản lý chất lượng con giống để đối phó với EMS
Năm 2014 ghi nhận một năm thắng lợi đối với ngành sản xuất tôm nước ta. Với việc tìm ra nguyên nhân gây bệnh EMS, các cơ quan quản lý đã chỉ đạo sát sao, hướng dẫn biện pháp phòng ngừa đồng thời tăng cường kiểm soát chặt chẽ lịch thời vụ cũng như vật tư đầu vào cho sản xuất, vụ nuôi tôm đã đạt được kết quả khả quan nhất là đối với tôm chân trắng. Sản lượng tôm ước đạt 660 nghìn tấn, tăng 22% so với năm 2013, mức cao nhất trong nhiều năm trở lại đây.
Đặc biệt, sản xuất tôm chân trắng tăng nhanh cả về sản lượng và diện tích nuôi trong khi đó tôm sú vẫn duy trì ổn định so với năm trước. Sản lượng tôm chân trắng ước đạt 400 nghìn tấn, tăng 42,9% so với 2013. Giá trị xuất khẩu (XK) mặt hàng tôm tăng 26,9%, chiếm tỷ trọng 50,8% trong tổng kim ngạch XK thủy sản năm 2014. Trong đó, XK tôm chân trắng tăng 46,3% và tôm sú tăng 4,2% với giá trị tương ứng đạt 2,31 tỷ USD và 1,64 tỷ USD.
“Nóng” vấn đề con giống
Việc phát triển nóng đối tượng tôm chân trắng đã tạo ra áp lực khá lớn về khả năng cung ứng con giống phục vụ nuôi cả về số lượng lẫn chất lượng. Năng lực sản xuất giống tôm sú và tôm chân trắng tăng dần trong giai đoạn 2009 – 2013. Theo Tổng cục Thủy sản (Bộ NN&PTNT), năm 2014, vùng ĐBSCL có khoảng 1.250 cơ sở sản xuất giống tôm với sản lượng ước đạt 20 tỷ con giống. Trong đó, sản xuất giống tôm sú có xu hướng giảm dần trong giai đoạn này do nhiều diện tích nuôi tôm sú chuyển sang tôm chân trắng. Những cơ sở sản xuất giống tôm sú trước đó có công suất nhỏ, điều kiện cơ sở vật chất hạn chế, chất lượng con giống thấp không thể cạnh tranh được nên dần đóng cửa.
Đối với tôm chân trắng, hiện nay các DN lớn như Việt – Úc, Number 1, Winco….đã đầu tư cơ sở hạ tầng tốt, giống nhập về chất lượng cao, đáp ứng được yêu cầu cho nuôi thương phẩm. Hiện nay, nhiều DN có xu hướng đầu tư sản xuất giống tại khu vực ĐBSCL. Chính vì vậy, trong tương lai không xa, việc cung cấp con giống của DN sẽ đáp ứng tốt cho nhu cầu thả nuôi và các cơ sở sản xuất nhỏ lẻ sẽ phải chuyển đổi mục đích sử dụng do không đáp ứng được yêu cầu sản xuất.
Mặc dù đã có những chuyển biến tích cực nhưng công tác quản lý chất lượng tôm giống còn nhiều hạn chế. Do tốc độ phát triển nuôi khiến nhu cầu con giống tăng nhanh, nên nhiều cơ sở sản xuất chạy theo lợi nhuận, sản xuất sản lượng lớn, không xem trọng chất lượng làm cho chất lượng tôm giống ngày càng đi xuống. Nhiều cơ sở sản xuất giống sử dụng tôm bố mẹ không rõ nguồn gốc, cho tôm đẻ nhiều lần trong năm dẫn đến tôm giống mang nhiều mầm bệnh nguy hiểm, chậm lớn, giảm tỷ lệ sống và khả năng chống chọi với mầm bệnh.
Mặc dù đã phát hiện nguyên nhân gây EMS và có những biện pháp phòng ngừa hiệu quả, tuy nhiên chất lượng con giống đang là một trong những mối nguy đe dọa dịch bệnh bùng phát trở lại. Theo tiến sĩ Trần Hữu Lộc, giảng viên Khoa Thủy sản, Đại học Nông Lâm Tp.Hồ Chí Minh, “Có đến 60% các mẫu tôm giống qua kiểm nghiệm phát hiện nhiễm bệnh EMS. Đây là nguy cơ rất lớn và là thách thức trong công tác phòng chống dịch bệnh trên tôm. Tôm giống sạch bệnh EMS chỉ đóng góp 50% khả năng thành công nhưng tôm giống nhiễm bệnh EMS có thể tạo ra gần 100% khả năng thất bại. Chính vì thế, siết chặt chất lượng con giống sẽ là bước đầu tiên quyết định sự thành công của vụ nuôi”.